Căn cứ nào để tăng tuổi nghỉ hưu

22/06/2017 07:38 AM



Căn cứ để quy định tuổi nghỉ hưu
Có ba nhóm yếu tố cơ bản làm chủ yếu, đó là:

- Tính chất nghề nghiệp, tính chất công việc: Những công việc có các yếu tố nặng, nhọc, độc hại, buộc phải tiêu hao lao động sống ở mức độ cao thì thường tuổi nghỉ hưu thấp hơn, như thợ mỏ hầm lò; lái xe 25-30 tấn; thợ rừng chặt hạ; thợ lặn... Ngược lại, những công việc bình thường, nhẹ nhàng hơn, mức độ tiêu hao lao động sống thấp hơn thì tuổi nghỉ hưu cũng thường cao hơn.

- Điều kiện, môi trường làm việc: Bao gồm các yếu tố ánh sáng, nhiệt độ, độ bụi, độ rung, tiếng ồn... nếu không đạt chuẩn hoặc vượt chuẩn đều có tác hại đến cơ thể người lao động. Ví dụ, về độ chiếu sáng, đối với người làm việc bàn giấy thì phải bảo đảm trong giới hạn 50-100 lux (luých); người làm ở xưởng may là 80-300 lux; không bị bóng tối hay chói, lóa trong tầm nhìn của người lao động. Tiếng ồn với cường độ mạnh, tần suất cao và thời gian dài sẽ làm cho con người mệt mỏi, các cơ bị nhão ra, mất sức nhanh, bị điếc nghề nghiệp. Có lẽ vì thế mà trong luật hình của Trung Hoa cổ đã ghi, Không cần treo cổ kẻ đã nhạo báng đấng tối cao. Hãy bắt hắn thức thâu đêm suốt ngày, liên tục trong sự ầm ĩ của tiếng trống, tiếng gào thét cho đến chết. Còn độ rung lắc mạnh quá chuẩn sẽ ảnh hưởng đến toàn thân, nhất là các khớp, thần kinh ngoại vi và lưu thông máu... Bởi vậy, những lao động làm việc trong môi trường độc hại thường tuổi nghỉ hưu cũng thấp hơn.

- Giới tính: Lao động nữ có chức năng “thiên bẩm” là sinh đẻ. Hao phí lao động sống cho những lần mang thai và “vượt cạn” là vô cùng lớn. Bởi vậy không ít nước đã quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ thường thấp hơn lao động nam, trong đó có Việt Nam.

Trong khu vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, ba nhóm điều kiện trên là vô cùng quan trọng, có nhiều công việc thuộc loại nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm nên tuổi nghỉ hưu thường thấp hơn. Phải hạn chế tối đa việc sử dụng lao động nữ vào các công việc đó; có việc không được sử dụng lao động nữ (như Điều 160 Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy định). Tuy nhiên, khó có thể quy định tuổi nghỉ hưu riêng biệt cho từng ngành nghề mà người ta thường xử lý phối hợp theo hai cách: Quy định tuổi nghỉ hưu chung cho tất cả người lao động, khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì người lao động có quyền quyết định nghỉ hưu hay làm tiếp; khi đến tuổi nghỉ hưu chung, một số người tài năng, hoặc lao động tay nghề hiếm nếu có nguyện vọng làm việc tiếp sẽ được xem xét theo những tiêu chí nhất định. Hoặc, vẫn thực hiện theo tuổi nghỉ hưu chung nhưng đến một thời điểm nào đó, người lao động có quyền chuyển nghề, chuyển việc cho phù hợp với sức khỏe đã bị giảm sút.

Căn cứ để tăng tuổi nghỉ hưu

- Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên khá. Những năm 60 của thế kỷ XX tuổi thọ trung bình của nam là 55 tuổi, nữ 60 tuổi; năm 2016, tương ứng là 73 tuổi và 75 tuổi. Khoảng cách giữa tuổi thọ trung bình và tuổi nghỉ hưu bình quân khá xa. Tuổi nghỉ hưu năm 2012 bình quân là 54,17 tuổi. Những năm 60-90 của thế kỷ trước, người lao động sau khi nghỉ hưu thường sống và hưởng lương hưu khoảng gần 10 năm, thì nay tới hơn 18 năm.

- Do tuổi nghỉ hưu hiện tại còn thấp trong khi tuổi thọ đã cao nên nhiều người nghỉ hưu vẫn tiếp tục đi làm (vừa không phải đóng BHXH, vừa hưởng lương hưu từ Quỹ BHXH).

- Thời kỳ dân số vàng của nước ta đến nhanh, nhưng già hóa dân số và nguy cơ thiếu hụt lao động trẻ cũng đã hiện hữu.

- Quỹ BHXH dài hạn (lương hưu, tử tuất) có thể không thật vững chắc nếu duy trì tuổi nghỉ hưu hiện tại.

- Việc tăng tuổi nghỉ hưu đang là xu thế chung ở nhiều quốc gia; có thể tham khảo tuổi nghỉ hưu ở một số quốc gia: Australia năm 1993 áp dụng nam 65 tuổi, nữ 60 tuổi; năm 2002, nam 65 tuổi, nữ 62,5 tuổi; dự kiến năm 2035, nam 65 tuổi, nữ 65 tuổi. Tương tự, CHLB Đức 65 tuổi và 60 tuổi; 65 tuổi và 61tuổi; 65 tuổi và 65 tuổi. Iceland 65 tuổi và 65 tuổi; 67 tuổi và 67 tuổi; 67 tuổi và 67 tuổi. Nhật Bản 60 tuổi và 58 tuổi; 60 tuổi và 60 tuổi; 65 tuổi và 65 tuổi. Anh 65 tuổi và 60 tuổi; 65 tuổi và 60 tuổi; 65 tuổi và 65 tuổi. Mỹ nam - nữ đều nghỉ hưu ở tuổi 62... (Báo cáo của Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội, Hội thảo Giới và chính sách pháp luật về xã hội do Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức ngày 31/10 và 01/11/2009 tại Quảng Ninh).

- Tăng tuổi nghỉ hưu sẽ tận dụng được một phần nguồn lao động có trình độ cao, có bề dày kinh nghiệm.

- Đến thời gian này cũng rất cần thiết thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ khi đời sống vật chất, tinh thần, sức khỏe của lao động nữ được nâng lên.

  Nhìn chung các căn cứ để tăng tuổi nghỉ hưu là khá đầy đủ và tương đối rõ ràng. Tuy nhiên ít nhiều cũng có mặt trái, đó là vài ba năm đầu khi thực hiện chính sách này sẽ có sự “dồn toa” đối với người đi tìm việc làm. Song mức độ ảnh hưởng ở mỗi khối lao động có khác nhau. Lao động thuộc lực lượng vũ trang hầu như không có ảnh hưởng; khối hành chính sự nghiệp công, nếu cải cách hành chính tốt, hoàn thiện được chức danh tiêu chuẩn, đào thải được phần lớn số lao động “sáng vác ô đi, tối vác ô về” thì rất có thể thu hút được nhân tài đúng tiêu chuẩn nhiều hơn. Còn khu vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ (khu vực lao động thị trường) ít nhiều có ảnh hưởng mạnh hơn hai khối trên, nhưng trong nền kinh tế thị trường thì ở bất cứ độ tuổi nào người lao động cũng có thể bị thất nghiệp (không cứ người mới ra trường đi tìm việc làm) vì kỹ thuật, công nghệ luôn được đổi mới thúc đẩy năng suất lao động tăng nhanh, tạo ra “cơ chế nhả” đào thải lao động. Cạnh tranh sẽ có doanh nghiệp ngừng sản xuất hoặc bị phá sản, mọi lao động của doanh nghiệp đó đều sẽ mất việc làm. Khi thay đổi mặt hàng sản xuất sẽ phải thay đổi cơ cấu lao động, những lao động không còn thích ứng sẽ mất việc... Tóm lại, tất cả người lao động (mới hay cũ) đều phải tìm việc làm khi chưa có việc, khi hết việc hoặc mất việc. Người lao động lần đầu đi tìm việc có thể có khó khăn hơn do chưa có thực tiễn, chưa có kinh nghiệm thị trường.

  Cân đối hai mặt (thuận, nghịch) thì chiều thuận là cơ bản, việc tăng tuổi nghỉ hưu và thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ vào thời gian tới là chấp nhận được, trừ những lao động đang làm các công việc nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm. Phương án nam 62 tuổi, nữ 58 tuổi nghỉ hưu có thể hợp lý hơn các phương án khác. Tuy nhiên, không nên theo lộ trình mỗi năm tăng 04 tháng, vì như thế sẽ rất khó khăn, rối rắm cho “bút toán” nghiệp vụ BHXH, do đó tăng là tăng luôn khi có hiệu lực thi hành. Song, để đáp ứng yêu cầu của người lao động thì nên quy định cho họ có quyền quyết định nghỉ hưu sớm hơn. Nam từ 55 tuổi, nữ từ 50 tuổi trở đi, nếu có nguyện vọng thì được quyền nghỉ hưu trước tuổi quy định.

  Mặt khác cũng phải suy nghĩ cặn kẽ thời điểm hiệu lực của việc tăng tuổi nghỉ hưu. Theo chúng tôi, lần này quy định tăng tuổi nghỉ hưu là đặt nền móng để tiến tới thực hiện, mà thời điểm thực hiện tương đối hợp lý là 01/01/2022. Vì hiện tại đang có những dư luận không thật chuẩn xác về cán bộ, công chức, nhất là đối với lãnh đạo, nếu thực hiện ngay sẽ không ít ý kiến về “lợi ích nhóm”. Mặt khác, cũng có ý kiến nói rằng, khi nào “chín muồi” thì hãy đưa vào Luật, không nên quy định trước; tuy nhiên, tăng tuổi nghỉ hưu là vấn đề muôn thuở, gần như không có thời điểm “chín muồi”, vì các lớp người và thời gian đều tịnh tiến. Để giải tỏa hai tình huống trên, rất cần thiết phải quy định có tính chất đặt nền móng (quy định bây giờ nhưng nhiệm kỳ sau mới thực hiện). Việc một luật có nhiều thời điểm hiệu lực thì đã có tiền lệ, ví dụ như Luật BHXH năm 2006 có tới 03 thời điểm hiệu lực (01/01/2007, 01/01/2008, 01/01/2009); Luật BHXH năm 2014 có 02 thời điểm hiệu lực (01/01/2016, 01/01/2018); Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự... cũng có nhiều thời điểm hiệu lực khác nhau./.

Theo http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/